So sánh chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và Nhật Bản

Giai đoạn từ năm 1750 đến năm 1914 là giai đoạn quan trọng trong lịch sử thế giới, và đặc biệt là ở Đông Á. Trung Quốc từ lâu đã trở thành siêu cường duy nhất trong khu vực, với nhận thức là “Trung Hoa” – vương quốc trung tâm của thế giới. Nhật Bản, được bao phủ bởi những vùng biển đầy bão tố, luôn tách biệt với các nước láng giềng châu Á và đã phát triển một nền văn hóa độc đáo và hướng nội.

Tuy nhiên, bắt đầu từ thế kỷ 18, cả nhà Thanh Trung Quốc và Mạc phủ Tokugawa Nhật Bản đều phải đối mặt với một mối đe dọa mới: sự bành trướng của các đế quốc châu Âu và sau đó là Hoa Kỳ. Cả hai quốc gia châu Á đều phản ứng bằng chủ nghĩa dân tộc ngày càng dâng cao, nhưng các phiên bản chủ nghĩa dân tộc của họ có những trọng tâm và kết quả khác nhau.

Chủ nghĩa dân tộc của Nhật Bản là chủ nghĩa hiếu chiến và bành trướng, cho phép bản thân Nhật Bản trở thành một trong những cường quốc với tốc độ đáng kinh ngạc. Ngược lại, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc lại mang tính phản động và vô tổ chức, khiến đất nước rơi vào hỗn loạn và bị kiểm soát bởi các thế lực ngoại bang cho đến năm 1949.

Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc

Vào những năm 1700, các thương nhân nước ngoài từ Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan và các nước khác đã tìm cách buôn bán với Trung Quốc, nơi vốn là nguồn cung cấp các sản phẩm xa xỉ tuyệt vời như lụa, đồ sứ và trà. Trung Quốc chỉ cho phép họ đến cảng Quảng Đông và chỉ được di chuyển trong khu vực đó. Các cường quốc nước ngoài muốn mở rộng sang các cảng khác và khu vực nội địa nữa.

Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất và thứ hai (1839-42 và 1856-60) giữa Trung Quốc và Anh đã kết thúc trong thất bại nhục nhã của Trung Quốc. Trung Quốc đã phải đồng ý trao cho các thương nhân, nhà ngoại giao, binh lính và nhà truyền giáo nước ngoài quyền được vào Trung Quốc tự do. Kết quả là, Trung Quốc rơi vào tình trạng bị đô hộ kinh tế, với các cường quốc phương Tây tranh nhau tạo ra “vùng ảnh hưởng” trên lãnh thổ Trung Quốc dọc theo bờ biển.

Đó là một sự đối lập đáng kinh ngạc đối với vương quốc Trung Hoa. Người dân Trung Quốc đổ lỗi cho tầng lớp cai trị, các hoàng đế nhà Thanh, về sự sỉ nhục này, và kêu gọi trục xuất tất cả người nước ngoài – bao gồm cả nhà Thanh, những người không phải là người Trung Quốc mà là người Mãn Châu khỏi lãnh thổ Trung Quốc. Nền tảng của chủ nghĩa dân tộc và tâm lý bài ngoại này đã dẫn đến cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc (1850-64). Nhà lãnh đạo có sức ảnh hưởng, Hồng Tú Toàn, đã kêu gọi lật đổ nhà Thanh, vốn đã chứng tỏ mình không có khả năng bảo vệ Trung Quốc và loại bỏ buôn bán thuốc phiện. Mặc dù cuộc nổi dậy Thái Bình không thành công nhưng nó đã làm suy yếu nghiêm trọng chính quyền nhà Thanh.

Cảm giác dân tộc chủ nghĩa tiếp tục phát triển ở Trung Quốc sau khi Cuộc nổi dậy Thái Bình bị dập tắt. Các nhà truyền giáo Thiên chúa nước ngoài đã đến vùng nông thôn, chuyển đổi một số người Trung Quốc sang Công giáo hoặc Tin lành, và đe dọa các tín ngưỡng Phật giáo và Nho giáo truyền thống. Chính phủ nhà Thanh tăng thuế đối với dân thường để tài trợ cho việc hiện đại hóa quân đội nửa vời, và bồi thường chiến tranh cho các cường quốc phương Tây sau các cuộc Chiến tranh nha phiến.

Vào năm 1894-95, người dân Trung Quốc đã phải hứng chịu một cú sốc khác đối với ý thức tự hào dân tộc của họ. Nhật Bản, từng là nước triều cống của Trung Quốc trong quá khứ, đã đánh bại Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất và nắm quyền kiểm soát Triều Tiên. Giờ đây, Trung Quốc đang bị sỉ nhục không chỉ bởi người châu Âu và người Mỹ mà còn bởi một trong những nước láng giềng gần nhất của họ, theo truyền thống là một nước chư hầu. Nhật Bản cũng áp đặt các khoản bồi thường chiến tranh và chiếm đóng quê hương Mãn Châu của các hoàng đế nhà Thanh.

Kết quả là, người dân Trung Quốc một lần nữa nổi dậy trong cơn thịnh nộ chống ngoại bang vào năm 1899-1900. Cuộc nổi dậy của Boxer bắt đầu để chống châu Âu và chống nhà Thanh, nhưng ngay sau đó người dân và chính phủ Trung Quốc đã hợp lực để chống lại các thế lực đế quốc. Một liên minh gồm 8 quốc gia gồm Anh, Pháp, Đức, Áo, Nga, Mỹ, Ý và Nhật Bản đã đánh bại cả Phiến quân Võ sĩ và Quân đội nhà Thanh, đẩy Thái hậu Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự chạy trốn khỏi Bắc Kinh. Mặc dù họ đã cố gắng bám trụ quyền lực trong một thập kỷ nữa, nhưng đây thực sự là dấu chấm hết cho thời nhà Thanh.

Nhà Thanh sụp đổ vào năm 1911, Hoàng đế cuối cùng là Phổ Nghi thoái vị, và một chính phủ Quốc dân đảng dưới quyền của Tôn Trung Sơn lên thay. Tuy nhiên, chính quyền đó không tồn tại được lâu, và Trung Quốc rơi vào cuộc nội chiến kéo dài hàng thập kỷ giữa những người dân tộc chủ nghĩa và những người cộng sản, chỉ kết thúc vào năm 1949 khi Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản thắng thế.

Chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản

Trong suốt 250 năm, Nhật Bản tồn tại yên lặng và hòa bình dưới thời Mạc phủ Tokugawa (1603-1853). Các chiến binh samurai nổi tiếng bị giáng xuống làm quan lại và buồn chán sáng tác thơ vì không có chiến tranh để chiến đấu. Những người nước ngoài duy nhất được phép ở Nhật Bản là một số ít thương nhân Trung Quốc và Hà Lan, những người này bị giới hạn tại một hòn đảo ở Vịnh Nagasaki.

Tuy nhiên, vào năm 1853, nền hòa bình này đã tan vỡ khi một đội tàu chiến chạy bằng hơi nước của Mỹ dưới sự chỉ huy của Tướng Matthew Perry xuất hiện ở Vịnh Edo (nay là Vịnh Tokyo) và đòi quyền tiếp nhiên liệu ở Nhật Bản.

Cũng giống như Trung Quốc, Nhật Bản phải cho phép người nước ngoài vào, ký các hiệp ước bất bình đẳng với họ, và cho phép họ có các quyền ngoài lãnh thổ trên đất Nhật Bản. Cũng giống như Trung Quốc, sự phát triển này làm dấy lên cảm giác chống đối ngoại bang và gia tăng dân tộc chủ nghĩa trong người dân Nhật Bản và khiến chính phủ sụp đổ. Tuy nhiên, không giống như Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã nhân cơ hội này để cải cách triệt để đất nước của họ. Họ nhanh chóng biến đất nước từ một nạn nhân của đế quốc thành một cường quốc hung hãn theo đúng nghĩa của nó.

Với sự sỉ nhục trong Chiến tranh Nha phiến gần đây của Trung Quốc có tác dụng như một lời cảnh báo, người Nhật bắt đầu bằng một cuộc đại tu hoàn toàn hệ thống xã hội và chính phủ của họ. Nghịch lý thay, động lực hiện đại hóa này lại xoay quanh Hoàng đế Minh Trị, từ một gia đình đế quốc đã trị vì đất nước trong 2.500 năm. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, các hoàng đế là những kẻ bù nhìn, trong khi các tướng quân nắm giữ quyền lực thực tế.

Năm 1868, Mạc phủ Tokugawa bị bãi bỏ và hoàng đế nắm chính quyền trong cuộc Duy Tân Minh Trị. Hiến pháp mới của Nhật Bản cũng xóa bỏ các giai cấp xã hội phong kiến, biến tất cả các samurai và daimyo trở thành thường dân, thành lập một quân đội nghĩa vụ hiện đại, yêu cầu giáo dục tiểu học cơ bản cho tất cả trẻ em trai và trẻ em gái, và khuyến khích phát triển công nghiệp nặng. Chính phủ mới đã thuyết phục người dân Nhật Bản chấp nhận những thay đổi đột ngột và triệt để này bằng cách lôi cuốn ý thức về chủ nghĩa dân tộc của họ; Nhật Bản không chịu khuất phục trước người châu Âu, họ sẽ chứng minh rằng Nhật Bản là một cường quốc hiện đại, vĩ đại, và Nhật Bản sẽ vươn lên trở thành “anh cả” của tất cả các dân tộc bị đô hộ và bị đày đọa ở châu Á.

Trong một thế hệ duy nhất, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc công nghiệp lớn với một quân đội và hải quân hiện đại có kỷ luật tốt. Nhật Bản mới này đã gây chấn động thế giới vào năm 1895 khi đánh bại Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất. Tuy nhiên, điều đó chẳng là gì so với sự hoảng loạn hoàn toàn bùng lên ở châu Âu khi Nhật Bản đánh bại Nga (một cường quốc châu Âu!) Trong Chiến tranh Nga-Nhật 1904-05. Đương nhiên, những chiến thắng tuyệt vời này của David-và-Goliath đã thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hơn nữa, khiến một số người dân Nhật Bản tin rằng họ vốn đã vượt trội so với các quốc gia khác.

Trong khi chủ nghĩa dân tộc đã giúp thúc đẩy sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của Nhật Bản trở thành một quốc gia công nghiệp hóa lớn và một cường quốc và giúp nước này chống lại các cường quốc phương Tây, nó chắc chắn cũng có một mặt tối. Đối với một số trí thức và nhà lãnh đạo quân sự Nhật Bản, chủ nghĩa dân tộc đã phát triển thành chủ nghĩa phát xít, tương tự như những gì đang diễn ra ở các cường quốc châu Âu mới thống nhất là Đức và Ý. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đầy thù hận và diệt chủng này đã khiến Nhật Bản rơi vào con đường tấn công quân sự quá mức, tội ác chiến tranh và cuối cùng là thất bại trong Thế chiến thứ Hai.


Nguồn: https://www.thoughtco.com/comparing-nationalism-in-china-and-japan-195603

Tranh: Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, họa sỹ Chikanobu.


Discover more from Những nẻo đường Phù Tang

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply